Trong những năm 1920, 1930, phương thức này rất thông dụng. Nếu bạn chỉ đọc một phần cuốn sách, khó có thể chắc chắn rằng bạn hiểu nội dung sách. Sự phân tích thấu đáo về cuộc thảo luận xung quanh một vấn đề sẽ tạo điều kiện giúp các nghiên cứu sau đạt kết quả tốt hơn.
Bạn hãy coi thế giới giả tưởng đó là nhà mình, hiểu nó như thể bạn có mặt tại mỗi phân cảnh, hãy là một thành viên trong thế giới giả tưởng, sẵn sàng làm bạn với các nhân vật và có thể đặt mình vào các tình tiết với niềm cảm thông sâu sắc và hành động, chia sẻ như một người bạn thật sự. Và các triết gia chuyên nghiệp như các nhà khoa học thì không quan tâm đến quan điểm của ai khác ngoài quan điểm của các chuyên gia. Nỗ lực này rất lớn nhưng kết quả đạt được lại rất mù mờ nên tốt nhất là hãy tránh nó.
Định lý 5 là kiểu định lý chứng minh mối quan hệ nếu thì. Nói cách khác là học bằng cách thực hành. Tóm lại, hai nhận xét đầu chỉ ra khuyết điểm của tác giả trong cơ sở lập luận.
Quy tắc 7: TÌM RA CÁC LẬP LUẬN CƠ BẢN TRONG MỘT CUỐN SÁCH DỰA TRÊN MỐI LIÊN HỆ GIỮA CÁC CÂU. Định lý 5 là kiểu định lý chứng minh mối quan hệ nếu thì. Những đoạn đối thoại của họ cứ đều đều, buồn tẻ và hầu như không thể đọc được.
Người ta vẫn có thể thức trong khi đang đọc trên một chiếc giường hay ghế êm ái, và nhiều người vẫn căng mắt ra đọc đến khuya trong ánh sáng lờ mờ. Bạn cũng chấp nhận công thức làm món bánh này nhưng vì là nam giới và không bao giờ vào bếp nên bạn quyết định không thực hành làm món bánh đó. Khi đã có kinh nghiệm trong việc thống nhất thuật ngữ với tác giả, bạn sẽ có khả năng tự kiểm tra xem mình có thành công hay không.
Điều phân biệt giữa chúng ta với các triết gia là các triết gia thường suy nghĩ một cách mạch lac, họ đặt những câu hỏi có tính tìm tòi và suy nghĩ kỹ về các kinh nghiệm để tìm ra câu trả lời. Có thể, bạn không đồng tình với mục đích đầu tiên là bạn cần biết cách đọc hiệu quả càng tốt hoặc không đồng tình với cách thức chúng tôi đưa ra để đạt được mục đích đó gồm các quy tắc đọc kiểm soát, đọc phân tích và đọc đồng chủ đề. Một năm sau khi cuốn Đọc sách như một nghệ thuật ra đời, có một tác phẩm tương tự mang tên How to read two books (Cách đọc hai cuốn sách) cũng được xuất bản.
Chúng ta đọc các tạp chí xuất bản định kỳ để thâu tóm được các tin tức và sự kiện đang diễn ra. Chúng tôi muốn gọi đó là những ghi chú có tính biện chứng (lý do sẽ được giải thích trong Phần 4). Đa số chúng ta đều quen đọc sách một cách bị động.
Ví dụ các câu hỏi mang tính lý thuyết sau: Vấn đề đó có tồn tại không? Nó thuộc loại nào? Tại sao nó tồn tại? Nó có thể tồn tại trong điều kiện nào? Nó phục vụ mục đích gì? Hậu quả do sự tồn tại của nó gây ra? Những thuộc tính đặc trưng của nó là gì? Mối liên hệ giữa nó và những vấn đề khác cùng loại hoặc khác loại như thế nào? Nó sẽ diễn biến ra sao? Hoặc những câu hỏi mang tính thực hành như: Nên tìm kiếm những mục tiêu nào? Lựa chọn phương tiện nào cho một mục đích cụ thể? Phải làm gì và theo trình tự nào để đạt được mục đích nhất định? Trong điều kiện hiện tại, làm thế nào là đúng hoặc tốt hơn nên làm gì? Trong hoàn cảnh nào thì làm việc này tốt hơn làm việc kia? Có nhiều công cụ giúp mắt không dừng lâu ở một chỗ. Nếu không, bạn cần đọc lại những luận bàn của tác giả.
Aristotle đã nhận định rằng tiêu chuẩn của tính chân thực trong thơ ca không giống như trong chính trị hay trong vật lý, tâm lý học. Một lời giới thiệu súc tích về tính chỉnh thể phải chỉ ra được những phần chính tạo nên cuốn sách đó. Ngày nay, không có sự phân biệt giữa độc giả chuyên ngành và độc giả nói chung khi đọc các cuốn sách khoa học đương đại.
Hãy đọc tiểu sử như đọc sách lịch sử, hãy xem những cuốn tự truyện một cách ý nhị và đừng quên là không được tranh luận về cuốn sách cho tới khi đã hiểu cặn kẽ nội dung sách. Nhưng nhà khoa học có thể không nhận thức được điều đó nên ông giả định rằng một loại thí nghiệm hay nghiên cứu nào đó sẽ cho ông câu trả lời. Vì thế, các nguyên tắc chủ đạo về logic được diễn giải trong tập sách Organon (Công cụ) cũng được đề cập trong cuốn Physics (Vật lý).