Thậm chí nếu tác giả chứng minh cho lập luận của mình bằng việc chỉ cho chúng ta cách tiếp cận nguồn thông tin cho những lập luận đó và những nguồn tài liệu đó hoàn toàn phù hợp, chúng ta vẫn cảm thấy tác giả đã hiểu nhầm chúng và đánh giá sai về chúng (có thể do tác giả thiếu hiểu biết về bản chất con người hay những vấn đề của con người). Họ nhanh chóng từ bỏ đọc tác phẩm vì nghĩ rằng mình không thể nhớ được các mối quan hệ phức tạp và cũng không thể phân biệt ai với ai. Ý kiến này hiếm khi được nêu rõ trong các cuộc hội thoại, cho dù Socrates đã đề cập đến nó trong tác phẩm Apology (Lời tạ tội) khi ông khẳng định rằng cuộc sống không có kiểm soát thì không đáng sống.
Giả sử nếu ông sử dụng từ reading theo một nghĩa khác ở một phần khác trong cuốn sách - chẳng hạn trong cụm từ reading nature (bản chất của việc đọc) thì độc giả vẫn dễ dàng nhận thấy sự chuyển đổi sắc thái ý nghĩa của từ reading. Bằng không, đó là một tác phẩm triết học. Có thể tìm ra lịch sử của mỗi từ thông qua các tiền tố, hâu tố hoặc các từ gốc ban đầu cấu tạo nên nó.
Hai là, độc giả phải có khả năng vượt qua sự chênh lệch này ít hay nhiều. Chúng ta biết rằng học một ngôn ngữ mới thường liên quan đến cấp độ đọc sơ cấp. Một bài tóm tắt không bao giờ thay thế được quá trình đọc, nhưng nó có thể giúp bạn xác định xem mình có muốn, hay cần phải đọc một cuốn sách hay không.
Chính bản tóm lược này là thước đo mức độ hiểu, thể hiện sự sở hữu về mặt trí tuệ của bạn đối với cuốn sách. Bạn càng tỏ tường về những luận điểm của mình thì bạn càng ít đánh giá sai quan điểm của người khác. Vì mặc dù đã biết đi từ lâu, biết chân mình ở đâu, nhưng khi đi giày trượt tuyết vào, họ phải học đi lại từ đầu.
Người đọc cố gắng khám phá ra bộ khung của cuốn sách, còn tác giả lại bắt đầu mọi việc với bộ khung đó và cố gắng đắp da thịt lên trên để che lấp nó. Nói cách khác, mục đích của cấp độ này là cố gắng hiểu càng nhiều trong một khoảng thời gian ấn định trước - thường là một khoảng thời gian tương đối ngắn, thậm chí là quá ngắn để hiểu được mọi thứ được đề cập trong sách. Sách thực hành bao gồm những cuốn sách mô tả nghệ thuật dành cho người học; những cuốn sổ tay về bất cứ lĩnh vực nào như cơ khí, y khoa, nấu ăn; và cả những sách chuyên luận về kinh tế, đạo đức hay chính trị.
Tại sao họ có thể tỉnh táo đến thế? Đối với họ, có một sự khác biệt lớn giữa việc đọc hay không đọc cuốn sách họ đang cầm. Khi mang tính tích cực, triết học không đơn thuần là suy luận, tức là suy nghĩ mà không có kinh nghiệm. Mỗi cuốn sách không những bao gồm nhiều từ mà còn có nhiều cụm từ, nhóm câu giữ vai trò đơn vị.
Đôi khi, điều buộc người đọc phải tạo ra một khung câu hỏi theo cách không tác giả nào đúng. Không giống một nhà lịch sử, luôn vượt qua ranh giới thời gian và địa điểm, nhà khoa học thường đề cập tới vấn đề chung và cách xử lý chung. Điều quan trọng cần nhớ là dục tốc bất đạt.
Một tác phẩm mỹ thuật được coi là đẹp không phải vì nó được tinh lọc hay hoàn thành, mà vì tự thân nó đã là một kết thúc. Ưu điểm lớn của hình thức cách ngôn trong triết học là nó khiến người đọc phải suy nghĩ. Tất nhiên một cuốn bách khoa toàn thư vẫn được phép ghi lại ý kiến các nhân (ví dụ, trong một cụm từ như một số người cho rằng…, số khác lại thấy…) nhưng cần phải nói rõ ràng.
Một người có trình độ không gặp khó khăn gì trong việc thu thập những thông tin mới qua quá trình đọc, nếu các dữ kiện đó giống những gì anh ta đã biết. Vì thế có thể nói rằng sách mô tả dạy chúng ta một cách cơ bản, còn sách giả tưởng dạy những thứ phát sinh bằng cách tạo ra những kinh nghiệm mà ta có thể học hỏi được. Nếu tác giả các cuốn sách tồi dùng lối viết hàm ngôn, bạn sẽ không thể hiểu được dụng ý của tác giả ngoại trừ việc nhận ra sự diễn đạt thiếu chính xác của anh ta.
Trước khi tiếp tục các phần tiếp theo, chúng tôi muốn nhấn mạnh rằng những quy tắc trong quá trình đọc phân tích không miêu tả một quy trình hoàn hảo. Vấn đề nêu trên chỉ có thể được giải quyết khi bạn ra ngoài làm việc kiếm sống. DỮ KIỆN LÀ NHẬN ĐỊNH.